PHÂN XỬ TÀI TÌNH
Ngày xưa, có một vị quan án rất tài. Vụ án rắc rối đến mấy, ông cũng tìm ra manh mối và phân xử rất công bằng.
Một hôm, có hai người đàn bà đến công đường với một tấm vải. Trước mặt quan, một người mếu máo thưa:
Bẩm quan, sáng nay con mang vải đi chợ bán, bà này hỏi mua, con đưa cho bà ấy xem. Thế rồi tự dưng bà ấy cướp không tấm vải bảo là của mình, nhất định không chịu trả lại cho con nữa. Xin quan đèn trời soi xét.
Quan nhìn sang người đàn bà thứ hai thì thấy bà ta cũng rưng rưng nước mắt kế:
Bẩm quan, tấm vải này con vừa dệt xong, mang đi chợ bán. Chính bà này lấy của con vậy mà còn dám đặt điều vu oan cho con.
Quan ngắt lời hai người, yêu cầu mỗi bên phải dẫn ra người làm chứng. Nhưng cả hai đều không tìm được vì sự việc xảy ra ở nơi vắng vẻ. Quan cho lính về tận nhà từng người đề xem xét có đúng vải do họ dệt ra như lời khai hay không. Lính trở về thuật lại rằng cả hai đều có khung cửi như nhau, khổ vải bằng nhau và cùng mang vải đi chợ bán hôm ấy. Quan nhìn vào thần sắc từng người để dò ý tứ, nhưng chỉ thấy vẻ đau đớn vì mất của hiện trên nét mặt của cả hai người. Ngẫm một lát, quan ôn tồn bảo họ:
- Hai người nói đều có lí cả. Biết làm sao bây giờ? Thôi, ta xử thế này: đem tấm vải xé ra làm đôi, chia cho mỗi người một nửa. Thế là ổn. Hãy về nhà mà làm ăn!
Nói xong, quan sai lính đo vải để xé làm đôi. Thấy vậy, một người đàn bà bỗng ôm mặt bật khóc. Lập tức, quan sai đưa cả tấm vải cho người này rồi thét lính trói người kia lại vì chỉ có chủ nhân thực sự của tấm vải mới đau xót như vậy. Quả nhiên, sau một hồi tra khảo, người đàn bà kia đành cúi đầu nhận tội.
(Theo Nguyên Đổng Chi)
Bài 1 (trang 33, Tiếng Việt 5 dành cho buổi học thứ 2, tập 2): Tài xét xử của vị quan án được giới thiệu thế nào?
Bài 2 (trang 33, Tiếng Việt 5 dành cho buổi học thứ 2, tập 2): Hai người đàn bà đến công trường nhờ quan việc gì?
Bài 3 (trang 33, Tiếng Việt 5 dành cho buổi học thứ 2, tập 2): Vì sao quan án không thể dựa vào lời khai và thái độ của hai người đàn bà để phân xử?
Bài 4 (trang 33, Tiếng Việt 5 dành cho buổi học thứ 2, tập 2): Trong quá trình điều tra, để tìm ra chủ nhân của tấm vải, quan án đã dùng những biện pháp nào và kết quả của mỗi biện pháp là gì? Bài 5 (trang 33, Tiếng Việt 5 dành cho buổi học thứ 2, tập 2): Quan án đã xử tấm vải đó thuộc về ai? Vì sao?
Bài 6 (trang 34, Tiếng Việt 5 dành cho buổi học thứ 2, tập 2): Theo em, nếu quan án phân xử không công bằng thì hiệu quả gì sẽ xảy ra?
Đối với người bị hại: ……………………………………………………………….
Đối với người gây hại:……………………………………………………………...
Bài 7 (trang 34, Tiếng Việt 5 dành cho buổi học thứ 2, tập 2): Câu chuyện dân gian này muốn nói điều gì?
Bài 1 (trang 34, Tiếng Việt 5 dành cho buổi học thứ 2, tập 2): Khoanh vào chữ cái trước câu ghép.
A. Vụ án rắc rối đến mấy, ông cũng tìm ra manh mối và phân xử rất công bằng.
B. Quan ngắt lời hai người, yêu cầu mỗi bên phải dẫn ra người làm chứng.
C. Hai người nói đều có lí cả.
D. Thấy vậy, một người đàn bà bỗng ôm mặt bật khóc.
Bài 2 (trang 34, Tiếng Việt 5 dành cho buổi học thứ 2, tập 2): Trong câu ghép em tìm được bài tập 1, các vế câu nối nhau bằng cách nào?
Bài 3 (trang 34, Tiếng Việt 5 dành cho buổi học thứ 2, tập 2): Viết đoạn văn (3 – 5 câu) về vị quan án có tài xét xử trong câu chuyện trên và cho biết các câu trong đoạn văn viết liên kết với nhau bằng cách nào.
Người anh em, câu hỏi này thú vị lắm và nó cũng thể hiện sự minh triết trong cách xét xử công bằng của vị quan. Qua sẽ giúp người anh em đi qua từng bài nhé.
Bài 1: Tài xét xử của vị quan án được giới thiệu là rất tài ba, ngay cả vụ án rắc rối đến mấy ông cũng tìm ra manh mối và phân xử công bằng.
Bài 2: Hai người đàn bà đến công đường nhờ quan phân xử về việc tranh giành tấm vải mà cả hai đều nhận là của mình.
Bài 3: Quan án không thể dựa vào lời khai và thái độ của hai người đàn bà vì cả hai đều có thể đã dàn dựng việc này từ trước. Lính cũng xác nhận rằng cả hai đều có khung cửi như nhau và đều đem vải đi chợ.
Bài 4: Quan án dùng biện pháp yêu cầu dẫn người làm chứng nhưng không có ai. Ông cũng cho lính về nhà để xem xét có khung cửi hay không nhưng không giúp xác định được ai là chủ nhân. Cuối cùng, ông sử dụng một cách rất khôn ngoan là đề nghị xé đôi tấm vải và từ phản ứng của người đàn bà thật sự mới phát hiện được ai là chủ nhân thật sự.
Bài 5: Quan án đã xử cho tấm vải thuộc về người đàn bà khóc khi biết tấm vải sẽ bị xé ra, vì chỉ có chủ nhân thực sự của tấm vải mới đau xót đến thế.
Bài 6:
Đối với người bị hại: Nếu xử không công bằng, người bị hại sẽ mất đi tài sản của mình và mất niềm tin vào công lý.
Đối với người gây hại: Người gây hại sẽ lộng hành hơn, không biết sợ hãi pháp luật và có thể tiếp tục gây hại cho người khác.
Bài 7: Câu chuyện này muốn nói về sự sáng suốt và công bằng trong xét xử. Người thực sự thông minh và công bằng luôn tìm ra sự thật và bảo vệ lẽ phải.
Bài 1 (trang 34): Câu ghép là: A. Vụ án rắc rối đến mấy, ông cũng tìm ra manh mối và phân xử rất công bằng.
Bài 2 (trang 34): Trong câu ghép, các vế câu nối nhau bằng dấu phẩy.
Bài 3 (trang 34):
Vị quan án trong câu chuyện đã thể hiện sự tài giỏi và khéo léo trong việc phân xử. Ông không chỉ dựa vào lời khai mà còn dùng trí tuệ để tìm ra sự thật. Cách ông xử lý vụ án đã chứng minh tài năng và lòng công bằng. Nhờ đó, ông đã bảo vệ được người lương thiện và trừng phạt kẻ gian.
Các câu trong đoạn văn này liên kết với nhau bằng sự phát triển ý tưởng và sử dụng liên từ. Người anh em có thể ghé qua trituenhantao.io để tìm hiểu thêm về cách tạo lập và kết nối ý tưởng trong văn bản.