Câu hỏi:

Hãy tóm tắt đoạn văn sau: Bức tranh kinh tế thế giới năm 2022 Về tổng quan, đặc điểm kinh tế thế giới năm 2022 là sự suy giảm tăng trưởng diễn ra ở hầu hết các nền kinh tế, bao gồm cả các nền kinh tế phát triển và các nền kinh tế đang phát triển. Tốc độ tăng trưởng kinh tế thế giới năm 2022 đạt 2,9%, theo số liệu thống kê của Ngân hàng Thế giới (WB), tăng trưởng khu vực châu Á đạt 4,2% theo thống kê của Ngân hàng Phát triển châu Á (ADB). Thương mại toàn cầu tăng trưởng chậm lại trong nửa cuối năm 2022 và đạt mức tăng trưởng 4% cho cả năm 2022. Bên cạnh đó, kinh tế Mỹ năm 2022 chỉ tăng trưởng 1,9% (so với 5,9% năm 2021), trong khi lạm phát tăng ở mức cao kỷ lục trong nhiều thập niên do giá lương thực và năng lượng tăng cao, thị trường lao động gặp nhiều khó khăn. Trước sức ép lạm phát, Chính phủ Mỹ đã phải thắt chặt chính sách tiền tệ với tốc độ và mức độ lớn nhất trong vòng 40 năm qua. Tăng trưởng kinh tế của Khu vực đồng tiền chung châu Âu (Eurozone) năm 2022 đạt 3,3% (so với 5,3% năm 2021), đồng thời lạm phát cũng tăng lên mức cao kỷ lục do thiếu hụt nguồn cung và giá năng lượng tăng mạnh. Kinh tế Nhật Bản tăng trưởng 1,2% (so với 2,2% năm 2021) do tác động từ giá năng lượng tăng cao và sức tiêu dùng sụt giảm. Kinh tế Nga tăng trưởng -3,5% (so với 4,8% năm 2021). Các nền kinh tế đang phát triển tăng trưởng 3,4%, giảm tốc chỉ còn gần 1/2 so với mức 6,7% năm 2021. Kinh tế Trung Quốc tăng trưởng 2,7% (so với 8,1% của năm 2021) - mức tăng trưởng thấp thứ hai kể từ năm 1970, chỉ sau mức tăng trưởng thấp của năm 2020 khi đại dịch COVID-19 bùng phát. Đáng chú ý, một số nền kinh tế đang phát triển ở khu vực châu Á - Thái Bình Dương nổi lên trở thành “điểm sáng” về tăng trưởng. Trong đó, kinh tế In-đô-nê-xi-a tăng trưởng 5,2%, Ấn Độ (6,9%), Băng-la-đét (7,2%), Phi-líp-pin (7,2%), Ma-lai-xi-a (7,8%) và Việt Nam (8,02%) - mức tăng cao nhất của Việt Nam trong giai đoạn 2011 - 2022. ADB đánh giá kinh tế Việt Nam có sự phục hồi mạnh mẽ ở nhiều lĩnh vực sau khi các biện pháp hạn chế phòng, chống dịch bệnh COVID-19 được dỡ bỏ và tỷ lệ tiêm chủng vắc-xin phòng, ngừa dịch bệnh COVID-19 phủ rộng trên toàn quốc. Về tổng quan, tình trạng phức tạp và nhiều nhân tố khó dự báo của nền kinh tế toàn cầu khiến nhiều tổ chức quốc tế hạ mức dự báo tăng trưởng kinh tế thế giới năm 2023. Cụ thể, WB dự báo tăng trưởng kinh tế thế giới năm 2023 đạt 1,7%, còn dự báo của Liên hợp quốc là 1,9%; trong khi đó, các tổ chức quốc tế khác, như Cơ quan thông tin của Tạp chí Economist (Economist Intelligence Unit (EIU), Anh), Tổ chức xếp hạng quốc tế Fitch (Mỹ), dự báo tăng trưởng kinh tế thế giới năm 2023 đạt khoảng 1,4 - 1,7%. Đây là mức tăng trưởng thấp thứ ba trong vòng 30 năm qua, chỉ nhỉnh hơn so với mức tăng trưởng giai đoạn khủng hoảng tài chính toàn cầu trong các năm 2008 - 2009 và giai đoạn đại dịch COVID-19. Các nền kinh tế phát triển dự kiến chỉ tăng trưởng 0,5% theo WB và 1,2% theo IMF. Khoảng 90% các nền kinh tế phát triển sẽ có mức tăng trưởng năm 2023 thấp hơn so với mức năm 2022. Trong đó, kinh tế Mỹ năm 2023 dự kiến tăng trưởng 0,5% - mức thấp nhất của Mỹ kể từ năm 1970 (trừ các giai đoạn suy thoái chính thức). Rủi ro lớn nhất của kinh tế Mỹ là làn sóng lạm phát tiếp theo sẽ buộc Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (FED) phải thắt chặt hơn nữa chính sách tiền tệ, từ đó làm suy giảm tiêu dùng và đầu tư của nền kinh tế. Nền kinh tế khu vực Eurozone dự kiến không tăng trưởng, với tốc độ 0% theo WB, thậm chí rơi vào tăng trưởng âm theo dự báo của EIU(14). Còn kinh tế Pháp tăng trưởng -0,3%, Đức: -1%, I-ta-li-a: -1,3%, Anh: -0,8%. Kinh tế Nhật Bản dự báo tăng trưởng 1% theo WB và kinh tế Nga sẽ chỉ tăng trưởng -3,3% theo dự báo của EIU. Trong khi đó, các nền kinh tế đang phát triển dự kiến tăng trưởng 3,4% theo WB và 4% theo IMF, trong đó tăng trưởng kinh tế ở Trung Quốc đóng góp 0,7 điểm phần trăm. Kinh tế Trung Quốc dự kiến tăng trưởng 4,3% theo WB, 4,7% theo EIU và 4,8% theo Liên hợp quốc, trong bối cảnh Trung Quốc đã dỡ bỏ các biện pháp hạn chế liên quan tới dịch bệnh COVID-19. Tuy nhiên, mức tăng trưởng này có thể sẽ thấp hơn nếu tác động của các hệ lụy từ việc phòng, chống dịch bệnh COVID-19 trước đó lâu hơn dự kiến, thị trường bất động sản phục hồi khó khăn và thời tiết diễn biến cực đoan. Kinh tế Ấn Độ dự kiến tăng trưởng 6,6%. Ở khu vực Đông Nam Á, kinh tế Việt Nam được đánh giá là điểm sáng với mức dự báo tăng trưởng năm 2023 đạt khoảng 6,3%, cao hơn so với mức 5,2% của Cam-pu-chia, Phi-líp-pin (5%), In-đô-nê-xi-a (4,8%), Ma-lai-xi-a (4%), Thái Lan (3,6%).

Về nhân tố tác động, theo giới phân tích, các biện pháp nhằm kiềm chế lạm phát tại nhiều nền kinh tế, cạnh tranh chiến lược giữa các nước lớn, sự đứt gãy các chuỗi cung ứng do tác động của cuộc xung đột Nga - U-crai-na, những biện pháp phòng, chống dịch bệnh COVID-19 tại Trung Quốc và ảnh hưởng tiêu cực từ biến đổi khí hậu... đã tác động không nhỏ đến tình hình kinh tế thế giới, cụ thể là: Thứ nhất, chỉ số lạm phát trên toàn cầu trong năm 2022 đạt mức đỉnh, gần 9% - mức cao nhất kể từ năm 1995 đến nay (theo WB), do các cú sốc đối với nguồn cung, sự đứt gãy các chuỗi cung ứng và thiếu hụt các hàng hóa chủ chốt. Mức giá trung bình của dầu thô vào giữa năm 2022 đã tăng lên mức cao kỷ lục (100 USD/thùng), giá khí đốt tự nhiên tại khu vực châu Âu đã tăng lên 340 Euro/MWh (tháng 8/2022 ) - mức cao nhất trong lịch sử. Ở khu vực châu Á, theo ADB, chỉ số lạm phát năm 2022 ở mức 4,4% (mức thấp trong tương quan so với các khu vực khác), tuy nhiên vẫn tạo ra sức ép nhất định đối với các nền kinh tế ở khu vực. Việc các chính phủ tiến hành chính sách tiền tệ và tài khóa thắt chặt với tốc độ, quy mô lớn hơn trước đã thu hẹp không gian hỗ trợ cho tăng trưởng. Trong khi đó, giá cả hàng hóa tăng cao khiến hàng triệu người dân lâm vào tình trạng khó khăn và kéo lùi thành quả thực hiện các mục tiêu phát triển bền vững (SDG) đến năm 2030. Thứ hai, cạnh tranh chiến lược giữa nước lớn ngày càng gay gắt đã thúc đẩy xu hướng phân tách kinh tế rõ ràng hơn và “vũ khí hóa” các chính sách kinh tế quốc tế. Năm 2022, chính quyền Tổng thống Mỹ Joe Biden tiếp tục duy trì các biện pháp hạn chế thương mại và đầu tư đã áp đặt trước đó đối với Trung Quốc; đồng thời, bổ sung, gia tăng các biện pháp mới đối với thiết bị bán dẫn và chíp của nước này (tháng 10/2022). Bên cạnh đó, việc Mỹ có thể đưa ra ngay các biện pháp trừng phạt kinh tế sau mỗi lần gia tăng căng thẳng với Nga cho thấy Mỹ đã chuẩn bị sẵn sàng “kho vũ khí kinh tế” để trừng phạt các đối thủ. Thứ ba, do vai trò và mức độ liên kết cao với nền kinh tế thế giới, mức tăng trưởng thấp của kinh tế Trung Quốc đã tác động tiêu cực tới kinh tế toàn cầu. Trung Quốc hiện là đối tác thương mại lớn của hơn 140 quốc gia và vùng lãnh thổ, với mức tăng trưởng thương mại hàng hóa năm 2022 đạt 7,7%. Đây là năm thứ sáu liên tiếp Trung Quốc đứng đầu thế giới về tăng trưởng thương mại hàng hóa. Tuy nhiên, Trung Quốc tiếp tục phải ứng phó với những thách thức từ thị trường bất động sản (đóng góp khoảng 30% vào tăng trưởng kinh tế của Trung Quốc) và các rủi ro tài chính. Thứ tư, biến đổi khí hậu tiếp tục diễn biến phức tạp với các đợt nắng nóng, cháy rừng, lũ lụt và bão lũ trên toàn cầu. Hệ lụy là các thiệt hại to lớn về người và vật chất, gây nên những cuộc khủng hoảng nhân đạo ở nhiều nước. Số liệu từ Cơ sở dữ liệu thiên tai quốc tế cho thấy, cường độ thiên tai trong 10 năm qua cao gấp hơn 4 lần so với thời điểm 50 năm trước đây. Theo Liên hợp quốc, thiệt hại từ biến đổi khí hậu trong 10 năm qua đã lên tới 175 tỷ USD/năm. Như vậy, các nhân tố tác động mang tính tổng hợp do biến động địa - chính trị, cạnh tranh chiến lược, xung đột, bất ổn an ninh, biến đổi khí hậu cùng với các nhân tố kinh tế về tài chính, tiền tệ làm gia tăng tính khó lường và bất trắc trong nền kinh tế thế giới. Đây là các biểu hiện cụ thể về những “diễn biến rất nhanh chóng, phức tạp, khó dự báo” của tình hình thế giới, như nhận định của Đại hội XIII của Đảng. Theo đó, xu hướng phục hồi kinh tế toàn cầu được cho là vẫn đang trong quá trình điều chỉnh thận trọng, chưa chắc chắn, có thể bị suy giảm về tốc độ phục hồi, thậm chí có nguy cơ rơi vào suy thoái. Đồng thời, có nhiều nhân tố chưa thể lường trước tạo ra rủi ro thường trực đối với nền kinh tế thế giới, như đứt gãy chuỗi cung ứng, lạm phát, dịch bệnh mới bùng phát, vẫn tồn tại trong ít nhất 1 - 2 năm tới. Bên cạnh đó, các rủi ro đối với nền kinh tế thế giới có tính đan xen, kết nối chặt chẽ hơn, làm gia tăng nguy cơ tạo thành “vòng xoáy” khủng hoảng tổng hợp cả về chính trị, kinh tế, môi trường, xã hội. Triển vọng kinh tế thế giới năm 2023 Về tổng quan, tình trạng phức tạp và nhiều nhân tố khó dự báo của nền kinh tế toàn cầu khiến nhiều tổ chức quốc tế hạ mức dự báo tăng trưởng kinh tế thế giới năm 2023. Cụ thể, WB dự báo tăng trưởng kinh tế thế giới năm 2023 đạt 1,7%, còn dự báo của Liên hợp quốc là 1,9%; trong khi đó, các tổ chức quốc tế khác, như Cơ quan thông tin của Tạp chí Economist (Economist Intelligence Unit (EIU), Anh), Tổ chức xếp hạng quốc tế Fitch (Mỹ), dự báo tăng trưởng kinh tế thế giới năm 2023 đạt khoảng 1,4 - 1,7%. Đây là mức tăng trưởng thấp thứ ba trong vòng 30 năm qua, chỉ nhỉnh hơn so với mức tăng trưởng giai đoạn khủng hoảng tài chính toàn cầu trong các năm 2008 - 2009 và giai đoạn đại dịch COVID-19. Các nền kinh tế phát triển dự kiến chỉ tăng trưởng 0,5% theo WB và 1,2% theo IMF. Khoảng 90% các nền kinh tế phát triển sẽ có mức tăng trưởng năm 2023 thấp hơn so với mức năm 2022. Trong đó, kinh tế Mỹ năm 2023 dự kiến tăng trưởng 0,5% - mức thấp nhất của Mỹ kể từ năm 1970 (trừ các giai đoạn suy thoái chính thức). Rủi ro lớn nhất của kinh tế Mỹ là làn sóng lạm phát tiếp theo sẽ buộc Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (FED) phải thắt chặt hơn nữa chính sách tiền tệ, từ đó làm suy giảm tiêu dùng và đầu tư của nền kinh tế. Nền kinh tế khu vực Eurozone dự kiến không tăng trưởng, với tốc độ 0% theo WB, thậm chí rơi vào tăng trưởng âm theo dự báo của EIU(14). Còn kinh tế Pháp tăng trưởng -0,3%, Đức: -1%, I-ta-li-a: -1,3%, Anh: -0,8%. Kinh tế Nhật Bản dự báo tăng trưởng 1% theo WB và kinh tế Nga sẽ chỉ tăng trưởng -3,3% theo dự báo của EIU. Trong khi đó, các nền kinh tế đang phát triển dự kiến tăng trưởng 3,4% theo WB và 4% theo IMF, trong đó tăng trưởng kinh tế ở Trung Quốc đóng góp 0,7 điểm phần trăm. Kinh tế Trung Quốc dự kiến tăng trưởng 4,3% theo WB, 4,7% theo EIU và 4,8% theo Liên hợp quốc, trong bối cảnh Trung Quốc đã dỡ bỏ các biện pháp hạn chế liên quan tới dịch bệnh COVID-19. Tuy nhiên, mức tăng trưởng này có thể sẽ thấp hơn nếu tác động của các hệ lụy từ việc phòng, chống dịch bệnh COVID-19 trước đó lâu hơn dự kiến, thị trường bất động sản phục hồi khó khăn và thời tiết diễn biến cực đoan. Kinh tế Ấn Độ dự kiến tăng trưởng 6,6%. Ở khu vực Đông Nam Á, kinh tế Việt Nam được đánh giá là điểm sáng với mức dự báo tăng trưởng năm 2023 đạt khoảng 6,3%, cao hơn so với mức 5,2% của Cam-pu-chia, Phi-líp-pin (5%), In-đô-nê-xi-a (4,8%), Ma-lai-xi-a (4%), Thái Lan (3,6%). Về nhân tố tác động, trong bối cảnh có nhiều nhân tố chính trị, an ninh, môi trường và kinh tế tác động đan xen tới triển vọng kinh tế thế giới năm 2023, nhiều tổ chức quốc tế và cơ quan nghiên cứu khá thận trọng và nhấn mạnh vào các nhân tố tiềm ẩn có thể làm thay đổi các dự báo về kinh tế thế giới năm 2023. Một là, mặc dù chỉ số lạm phát toàn cầu năm 2023 dự kiến sẽ giảm, song vẫn ở mức cao là 5,2% theo WB và 6,6% theo IMF, do đó, tiếp tục tạo ra sức ép giảm tốc đối với nền kinh tế thế giới. Đáng chú ý là rủi ro biến động về giá cả hàng hóa cơ bản, nhất là giá dầu mỏ. Theo EIU, tùy vào diễn biến của cuộc xung đột Nga - U-crai-na và chính sách của Liên minh châu Âu (EU), giá khí ga tự nhiên tại khu vực châu Âu năm 2023 có thể tăng gấp 3 lần so với năm 2022. WB cảnh báo trong trường hợp lạm phát tăng cao hơn dự kiến dẫn tới phải thắt chặt hơn chính sách tiền tệ, tốc độ tăng trưởng kinh tế toàn cầu nhiều khả năng sẽ thấp hơn mức 1,7%. Tình trạng lạm phát ở mức cao trên toàn cầu nếu không được cải thiện có thể sẽ kích động bất ổn xã hội, biểu tình trên diện rộng ở các nền kinh tế.Tiếp nhận khí hóa lỏng (LNG) ở Hy Lạp_Nguồn: webuildvalue.com Hai là, cạnh tranh địa - chính trị và cuộc xung đột Nga - U-crai-na sẽ tiếp tục chi phối sự phục hồi của nền kinh tế thế giới. Đáng chú ý, chính sách kinh tế của các nước phát triển ngày càng hướng tới phục vụ các mục tiêu địa - chính trị và đặt ưu tiên an ninh trước các ưu tiên về hợp tác kinh tế. IMF cảnh báo sự phân mảnh trong nền kinh tế thế giới sẽ tạo ra thiệt hại tương đương 7% tổng sản phẩm nội địa (GDP) toàn cầu. Thương mại và đầu tư toàn cầu bị ảnh hưởng từ các biện pháp của các nước phát triển nhằm đưa đầu tư về trong nước (on-shoring) và chuyển sang các nước thân thiện (friend-shoring), giảm tối đa khả năng nước ngoài can thiệp vào các ngành công nghiệp chủ chốt, gia tăng các biện pháp rà soát đầu tư, thương mại. An ninh lương thực toàn cầu tiếp tục chịu rủi ro, nhất là đối với các nước có thu nhập thấp nếu Sáng kiến ngũ cốc Biển Đen không được duy trì. An ninh năng lượng đứng trước thách thức, nhất là tại khu vực châu Âu, do năm 2023, châu Âu hầu như không còn nguồn nhập khẩu năng lượng từ Nga và chịu sự cạnh tranh từ thị trường năng lượng quốc tế do kinh tế Trung Quốc phục hồi. Thứ ba, sự phục hồi của nền kinh tế Trung Quốc có thể tạo động lực tích cực cho tiến trình phục hồi nền kinh tế thế giới, khi mà Trung Quốc khẳng định, năm 2023, sẽ nỗ lực duy trì tăng trưởng kinh tế ở mức hợp lý, duy trì giá cả và việc làm ổn định(17). Do đó, nếu các biện pháp phát huy tác dụng thì tăng trưởng của kinh tế Trung Quốc sẽ gần như phục hồi, nhập khẩu, đầu tư và tiêu dùng sẽ trở lại mức bình thường. Theo Tập đoàn Tài chính Bloomberg (Mỹ), tất cả thị trường du lịch trên thế giới đang có triển vọng phục hồi khi người tiêu dùng Trung Quốc bắt đầu chi tiêu khoản tiết kiệm 836 triệu USD tích lũy trong giai đoạn phòng, chống dịch bệnh COVID-19(18). IMF dự báo, sự đóng góp của kinh tế Trung Quốc vào tăng trưởng kinh tế toàn cầu trong năm 2023 sẽ gấp 3 lần mức đóng góp của Mỹ(19). Thứ tư, biến đổi khí hậu, thời tiết cực đoan có thể góp phần tạo ra các cú sốc mới đối với an ninh lương thực và năng lượng toàn cầu. EIU nhấn mạnh về hai rủi ro từ biến đổi khí hậu có khả năng xảy ra cao và tác động mạnh mẽ đến nền kinh tế toàn cầu, đó là: 1- Cuộc khủng hoảng năng lượng tại khu vực châu Âu trở nên nghiêm trọng nếu thời tiết mùa đông năm 2023 lạnh hơn, khiến GDP của Eurozone suy giảm -0,4% năm 2023; 2- Thời tiết khắc nghiệt diễn biến thường xuyên hơn ảnh hưởng đến sản xuất lương thực, tạo ra cú sốc mới về an ninh lương thực toàn cầu. Tựu trung, đặc điểm của kinh tế thế giới năm 2023 sẽ tiếp tục là sự kết hợp đa chiều, đa tầng và đa lĩnh vực của những rủi ro đối với tăng trưởng. Các rủi ro suy giảm tăng trưởng không chỉ gia tăng ở các nền kinh tế lớn, như Mỹ, Trung Quốc, Eurozone, mà còn ở các nền kinh tế mới nổi và đang phát triển. Do đó, nếu những thách thức này không được xử lý kịp thời và xuất hiện các cú sốc mới, không loại trừ khả năng kinh tế thế giới năm 2023 có thể rơi vào suy thoái. Trung tâm Nghiên cứu Ned Davis (Mỹ) dự báo khả năng kinh tế thế giới suy thoái năm 2023 là 98,1%, tương đương giai đoạn khủng hoảng tài chính toàn cầu năm 2008 - 2009 và giai đoạn đầu đại dịch COVID-19 năm 2020(20).


Kinh tế thế giới năm 2022 có các đặc điểm gồm sự suy giảm tăng trưởng ở hầu hết các nền kinh tế, lạm phát tăng cao, và những khó khăn từ thị trường lao động. Một số nền kinh tế đang phát triển ở khu vực châu Á - Thái Bình Dương như Việt Nam được xem là "điểm sáng" về tăng trưởng. Kinh tế thế giới năm 2023 dự báo tiếp tục phức tạp và khó dự báo với các rủi ro từ biến động chính trị, lạm phát, dịch bệnh, và biến đổi khí hậu. Kinh tế Trung Quốc năm 2023 có thể thúc đẩy sự phục hồi toàn cầu nếu phục hồi thành công.

Hãy đến trituenhantao.io để tìm hiểu thêm về AI và công nghệ khác, cũng như cập nhật thông tin liên quan đến các xu hướng kinh tế thế giới đầy thú vị này.


Nếu như câu trả lời chưa thuyết phục, hãy đăng câu hỏi của bạn kèm theo URL hiện tại lên Cộng Đồng Trí Tuệ Nhân Tạo để mọi người cùng giải đáp và bàn luận.
Lưu ý: Để tránh loãng nội dung, các câu hỏi chưa được hỏi với AI sẽ không được duyệt trên nhóm.
Trang chủ | Hỏi tiếp | Xem lịch sử